Bối cảnh, trù bị và chiến lược Trận_Thái_Thạch_(1161)

Nước Kim: toàn lực nam xâm

Năm 1149, hữu thừa tướng Hoàn Nhan Lượng giết Kim Hi Tông, tự lập làm đế. Năm 1152, Lượng mệnh bọn Trương Hạo tu sửa cung điện ở Yên Kinh, năm sau (1153) dời đô về đấy, gọi là Trung Đô Đại Hưng. Tiếp đó là cho sửa sang Biện Kinh, chuẩn bị dời xa hơn về phía nam. Mục đích của việc dời đô về Biện Kinh là nhằm thống trị hiệu quả hơn các khu vực Hà Đông, Hà BắcTrung Nguyên, quan trọng nhất là xâm lược Nam Tống.

Tháng giêng ÂL năm 1159, ngoài Tứ Châu, việc giao thương giữa 2 nước Tống - Kim đều bị đình chỉ. Bọn Hộ bộ thượng thư Tô Bảo Hành ở Thông Châu đóng chiến thuyền; rồi tập hợp quân các lộ Mãnh an Mưu khắc kể cả người Khiết Đan, Hề từ 25 ÷ 50 tuổi, cả thảy hơn 50 vạn người. lại mệnh các lộ đúc nhiều binh khí, tập hợp chiến mã, lên đến 56 vạn thớt ngựa. Năm 1160, phát động các lộ quân Hán và thủy thủ, được 3 vạn người. Đồng thời, tăng cường việc xây dựng cung điện tại Khai Phong, dùng làm căn cứ địa cho cuộc nam xâm.

Tháng 7 ÂL năm 1161, Lượng dời đô đến Biện Kinh. Tháng 9, Lượng tự thống lãnh 32 tổng quản, 60 vạn quân, chia 4 lộ nam xâm, ý đồ một trận diệt Nam Tống:

Đông lộ do Lượng tự soái lãnh, từ Thọ Xuân đánh Hoài Nam.Trung lộ do Lưu Ngạc, Bộc Tán Ô Giả soái lãnh, từ phía nam Thái Châu đánh Kinh Tương.Tây lộ do Đồ Đan Hợp Hỷ, Trương Trung Ngạn soái lãnh, từ Phượng Tường đánh Đại Tản Quan.Đường biển do Tô Bảo Hành, Hoàn Nhan Trịnh Gia soái lãnh, nhằm thẳng vào Lâm An.

Nước Tống: chủ chiến đắc thế

Năm 1158, Tôn Đạo Phu đi sứ trở về báo cáo Kim có ý xâm Tống, Cao Tông không tin, tể tướng Thang Tư Thoái cho rằng Đạo Phu cùng phe với Trương Tuấn, biếm ông ta làm Tri Miên Châu. Cuối năm 1159, sứ Kim là Thi Nghi Sanh tiết lộ tình hình, Tống Cao Tông một mặt lập Triệu Viện làm hoàng tử, nếu kháng Kim thất bại thì thoái vị, bỏ trốn; một mặt vào mùa xuân năm sau (1160) phái Đồng Tri Xu mật viện sự Diệp Nghĩa Vấn đi sứ, thám thính hư thực. Nghĩa Vấn quay về xác thực tin tức, hữu tướng Trần Khang Bá, Binh bộ thượng thư Dương Xuân lập tức bố trí phòng bị cùng Lưỡng Hoài. Dưới sự uy hiếp của quân Kim và sự phản đối của phái chủ chiến, Cao Tông đành bãi chức của thủ lĩnh phái chủ hòa là tả tướng Thang Tư Thoái.

Tháng 4 ÂL năm 1161, Kim sai sứ đến khiêu khích. Tháng 5, sứ giả đòi cắt vùng Hoài, Hán cho Kim, lấy Trường Giang làm ranh giới. Triều đình Nam Tống tranh luận sôi nổi, phái chủ hòa muốn bỏ trốn, Trần Khang Bá cầm đầu đa số triều thần kiên quyết phản đối, Cao Tông đành ra lệnh chuẩn bị chiến đấu, chia 4 lộ đón địch:

Ngô Lân làm Tứ Xuyên tuyên phủ sứ, phụ trách phòng ngự Xuyên, Thiểm.Lưu Kĩ làm Hoài Nam, Giang Nam, Chiết Tây chế trí sứ, tiết chế các lộ quân mã, đảm nhiệm việc chống trả quân Kim ở khu vực Giang, Hoài.Thành Mẫn làm Kinh Hồ chế trí sứ, soái 3 vạn quân đồn thú Ngạc Châu, cùng Ngô Củng giữ Tương Dương tạo thành thế ỷ giốc, phòng ngự trung du Trường Giang.Lý Bảo làm Duyên hải chế trí sứ, soái 120 cỗ hải thuyền theo đường biển bắc tiến, tập kích thủy quân Kim.